Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030

3/21/23 4:14 AM
 

Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn hơn 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20 tháng 8 năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài (viết tắt là ĐTNN) đến năm 2030. Đây là một Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta trong thời kỳ mới.

Nhìn lại sau hơn 30 năm thực hiện thu hút ĐTNN đã cho thấy những kết quả thu được là rất quan trọng, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ĐTNN góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Tuy nhiên, việc thu hút, quản lý và hoạt động ĐTNN vẫn còn những tồn tại, hạn chế và phát sinh những vấn đề mới như chất lượng, hiệu quả thu hút và sử dụng ĐTNN còn hạn chế; mất cân đối trong thu hút và sử dụng ĐTNN; Liên kết giữa khu vực ĐTNN với khu vực kinh tế trong nước chưa chặt chẽ; xuất hiện những vấn đề tiêu cực và mới phát sinh- Việc phát triển, thu hút và hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội trong khu vực ĐTNN còn khó khăn.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như nhận thức của các cấp, các ngành và của xã hội còn chưa đầy đủ, đúng mực và nhất quán về vị trí, vai trò của ĐTNN đối với nền kinh tế; Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; Thể chế, chính sách về ĐTNN chưa theo kịp yêu cầu phát triển; Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về  ĐTNN còn hạn chế; Công tác xây dựng, phát triển đảng, công đoàn, tổ chức chính trị, xã hội trong các doanh nghiệp ĐTNN chưa được quan tâm đúng mức; thiếu hướng dẫn và mô hình, phương thức hoạt động chưa phù hợp; trình độ và năng lực của cán bộ công đoàn cơ sở còn hạn chế.

Từ thực tiễn của hoạt động thu hút ĐTNN trong suốt những năm qua đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần có 5 quan điểm mới để định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách phù hợp bối cảnh mới ngày nay là:

  • Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.

  • Xây dựng, hoàn thiện, thể chế chính sách về ĐTNN phù hợp xu hướng phát triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và hài hoà với các cam kết quốc tế, bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, công khai, minh bạch và tính cạnh tranh cao.

  • Chủ động thu hút, hợp tác ĐTNN có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

  • Đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư, đan xen lợi ích trong hợp tác ĐTNN và kết nối hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và mục tiêu phát triển bền vững; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh, trật tự, an toàn xã hội và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

  • Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước và nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và phát huy sự năng động, sáng tạo của người dân và doanh nghiệp trong việc hoàn thiện, thực thi và giám sát việc thực hiện thể chế, chính sách về thu hút và hợp tác ĐTNN.

Để thực hiện 5 quan điểm trên cần xác định mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác ĐTNN có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khắc phục căn bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách về hợp tác ĐTNN. Tạo lập môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN 4 trước năm 2021, thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030.

Để hoàn thành được mục tiêu trên, cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách chung về ĐTNN; Rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư; Hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm bảo hộ và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư; Hoàn thiện thể chế chính sách quản lý, giám sát đầu tư; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTNN.

Ngoài ra, Nghị quyết cũng đưa ra các mục tiêu phấn đấu cụ thể đối với việc thu hút vốn FDI, bao gồm:

  • Vốn đăng ký giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 150 - 200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm); giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 200 - 300 tỉ USD (40 - 50 tỉ USD/năm).

  • Vốn thực hiện giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 100 - 150 tỉ USD (20 - 30 tỉ USD/năm); giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 150 - 200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm).

  • Tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao tăng 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030 so với năm 2018.

  • Tỉ lệ nội địa hoá tăng từ 20 - 25% hiện nay, lên mức 30% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030.

  • Tỉ trọng lao động qua đào tạo trong cơ cấu sử dụng lao động từ 56% năm 2017 lên 70% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030.

Bài viết liên quan